Văn học nghệ thuật và cốt cách người Việt Nam
VOV.VN- Cốt cách người Việt Nam khởi nguồn từ lời hát ru, từ ca dao tục ngữ. Văn học nghệ thuật kế thừa, phát triển những giá trị cao đẹp đó.
Cuối tuần qua, một hội thảo về “tính dân tộc trong phim truyện Việt Nam” được tổ chức, qua đó cho thấy điện ảnh nước ta đang mờ dần bản sắc dân tộc. Đáng lo ngại hơn vì đó cũng là thực trạng chung của văn học nghệ thuật hiện nay. Học hỏi là một nhu cầu, một hoạt động thường xuyên để phát triển, nhưng a dua học đòi thì sẽ làm lu mờ bản sắc, biến dạng cốt cách.
Tính dân tộc, bản sắc dân tộc chính là cốt cách người Việt Nam, là những giá trị tiêu biểu, riêng có, được lịch sử trao truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác trong dòng chảy liên tục, không ngừng. Những giá trị cốt cách ấy kể ra không hết, nhưng về cơ bản đó là lòng yêu nước, ý chí tự cường, tinh thần cộng đồng, tính cố kết gia đình - làng xã - dân tộc - Tổ quốc. Đó là lòng nhân ái khoan dung, trọng đạo nghĩa, là đức tính cần cù sáng tạo trong lao động, là sự tinh tế trong ứng xử, giản dị trong lối sống...
Những bài hát quan họ góp phần làm cho Văn học nghệ thuật thêm phong phú |
Điện ảnh Việt Nam từng có “thời kì vàng” với những bộ phim hàng chục năm sau xem lại vẫn cảm nhận được những giá trị bất biến. Nhưng nếu rà soát lại trong 10-15 năm trở lại đây thì khó mà tìm ra được dù chỉ một tác phẩm xứng với thời cuộc. Không phải không có bộ phim nội dung tư tưởng tốt, nhưng nhiều chi tiết lại xa rời thực tiễn, thiếu sự rung động của những người làm phim, nên không chạm tới được những giá trị cao đẹp ấy.
Không chỉ riêng điện ảnh, mà đó cũng là thực trạng chung của văn học nghệ thuật hiện nay. Thời buổi cái gì cũng đong đếm bằng tiền, nên nhiều người làm văn học nghệ thuật a dua theo phong trào, nếu không sáng tạo một cách tùy tiện bừa bãi thì lại tuyệt đối hóa một cái gì đó, dẫn đến sự cùn mòn, chắp vá, lai căng. Văn thơ vì thế không thấy xuất hiện tên tuổi và tác phẩm lớn. Âm nhạc nhanh, nhiều, rẻ nhưng chưa tốt, nhiều sản phẩm pha tạp, độc hại. Chèo, tuồng, cải lương có diễn dịch bằng tiếng Anh cũng không tìm ra lối thoát, xuân thu nhị kì được vài đêm đỏ đèn.
Nhiều kênh truyền hình bị giải trí hóa theo kịch bản nhập ngoại, cùng với Internet, mạng xã hội, blog cá nhân tạo ra sự hỗn độn, khó phân biệt thật giả. Sách, báo, xuất bản phẩm ngày càng ít người đọc, truyện trong nước và truyện dịch na ná như nhau. Hội họa, điêu khắc, kiến trúc thì vay mượn ý tưởng. Đến như lễ hội là hoạt động linh thiêng nhưng nhiều nơi cũng biến dạng theo hình mẫu nước ngoài, không ít chỗ lấp ló đằng sau sự chạy chọt, bán mua, nên lễ hội biến thành công cụ phục vụ lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm.
Đành rằng làm gì cũng phải học, bởi học hỏi là nhu cầu tự thân của con người, nhất là trong xu thế hội nhập, học hỏi càng phải làm thường xuyên liên tục để phát triển, nhưng học cần có chọn lọc, định hướng, để không rơi vào a dua học đòi dẫn tới lu mờ bản sắc, biến dạng cốt cách. Đúng là mặt trái của kinh tế thị trường làm văn hóa xuống cấp, làm suy thoái tư tưởng, đạo đức, lối sống, nhưng không ai khác mà chính là những người làm văn học nghệ thuật cần làm tốt chức năng giáo dục, hướng đối tượng thụ hưởng vào việc giữ gìn cốt cách, bản sắc dân tộc. Nhiều năm qua, đội ngũ đông đảo văn nghệ sĩ nước ta có nhiều trăn trở, tìm tòi, có thành công và thất bại, có cả những vấn đề phải chờ thực tiễn kiểm nghiệm.
Cốt cách người Việt Nam ta khởi nguồn từ lời hát ru, từ câu ca dao tục ngữ truyền miệng ngàn đời, từ những câu chuyện thần thoại, cổ tích,... Văn học nghệ thuật có nhiệm vụ kế thừa, phát triển những giá trị cao đẹp từ cốt cách ấy. Có người nói, văn học nghệ thuật chính là di sản quí giá của dân tộc, nhưng nếu cứ để kéo dài tình trạng lu mờ bản sắc, biến dạng cốt cách thì đến một lúc nào đó tự mình sẽ hủy diệt mình. Những sản phẩm văn học nghệ thuật mang khuyết tật về văn hóa cho dù cố tìm cách tạo tiếng vang hay sự chú ý nhất thời thì sớm hay muộn cũng bị lãng quên mà thôi./.